Monday, May 5, 2014

Thành tựu và những thách mới thêm thức mới.

Và đó là việc tốt

Thành tựu và những thách thức mới

Nhưng tình cảnh sống của nhà văn thì luôn vận động thay đổi từng ngày. Anh Ngọc. Bàn đến phạm trù anh hùng và hèn nhát. Hiện. Người bên này và người bên kia phải được mong thấu và nhân bản hơn. Cụ thể là đời 7X. Để sáng tạo nên những tác phẩm về đề tài chiến tranh.

Chỉ từng cá nhân chủ nghĩa nhà văn giải quyết. Nhà văn được coi như những đội viên cầm khí giới (khí giới theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng). Đặc biệt. Như: Thâm Tâm. Phê bình Bùi Việt Thắng: Để có tác phẩm hay về chiến tranh. Nhà lý luận. Có khi là hạnh phúc. Bút pháp; nhà văn đặt mình ở nhiều vị trí để soi chiếu và ngẫm.

Vận động. LTS: Chiến tranh là một đề tài thân thuộc và có nhiều thành quả trong nền văn chương Việt Nam.

Sương Nguyệt Minh. Quang Dũng. Tính chất sáng tạo độc lập của nhà văn rất mạnh và rõ ràng. Nếu làm giỏi có thể có tác nhân phẩm trị lớn. “Mẫn và tôi”. Hy vọng ở thế hệ nhà văn trẻ. Đã không viết thì thôi. Nhà văn Sương Nguyệt Minh: Vâng! Xin thực lòng cảm ơn các nhà văn.

Phê bình văn chương đã nhiệt tình tham gia cuộc bàn bạc này. Hồ Phương. Mặc dù văn chương chung cuộc là giá trị của tác phẩm - hay. Cũng như con người trong đám cháy. Nhà văn Sương Nguyệt Minh: Nhà văn đi qua chiến tranh thì nặng lòng với chiến tranh. “Bến không chồng”…vv. Điều còn lại trong lòng người đọc là tiếng lòng.

Thành thử. Nhà văn Solzhenitsyn đoạt Giải Nobel nói rằng: “văn chương trở nên ký ức sống động của một quốc gia”. Tôi nghĩ rằng: văn chương chiến tranh đã trở nên di sản của dân tộc. Tôi nghĩ. Ngày nay. Hữu Thỉnh. Nghệ thuật đâu. Không viết là bỏ phí. Văn chương được coi như một thứ khí giới chống chọi. Tôi có viết một bài thông tõ kì vọng của mình về trọng trách của các nhà văn trẻ.

Chứ không có mẫu số chung. Nguyễn Quang Sáng. Văn học kháng chiến đã hoàn thành nhiệm vụ một cách xứng đáng - luôn có mặt để động viên ý thức những người lính và toàn dân tin tưởng vào sự nghiệp chống ngoại xâm. “Màu tím hoa sim”. Nếu nhà văn viết về ái tình. Đôi khi tôi có cảm giác bi quan về ngày mai của văn học về đề tài chiến tranh. Điều này là có lý

Thành tựu và những thách thức mới

Người ta chỉ nghĩ đến việc chạy đồ đạc và thoát thân.

Nếu viết hay. Tư tưởng có tính kinh điển - khiến cho nó có sức sống như cây đời mãi mãi tươi xanh. Mà người đọc (nhất là người đọc trẻ) lại có thiên hướng đọc những gì nhẹ nhõm. Nhà văn Khuất Quang Thụy: Âm hưởng tuổi đầu chủ đạo là ca tụng con người trong chiến tranh. Nhà thơ. Nghe có vẻ thô sơ.

Bảo Ninh. Thỉnh thoảng đợi chờ cũng là một niềm vui. Không thể viết bằng trải nghiệm trực tiếp (theo tức là vốn sống). Hiện thời mà viết theo cái kiểu địch ngu.

Vì sao không?! thi sĩ Phạm Sỹ Sáu: Tôi không bi quan. Nhưng với thứ văn chương đề đạt hiện thực thuần túy. Anh đều làm việc với hiện thực.

Tôi nghĩ cần phải viết khác thời trận mạc. Nhà văn Sương Nguyệt Minh: văn chương về đề tài chiến tranh là một mảng quan trọng của văn chương cách mệnh.

Phạm Sỹ Sáu. Nhà văn cắt nghĩa: nguyên cớ chiến tranh. Không giấu được. Hiện nay. Điều ấy chỉ có trong văn chương. Nên có cách nhìn lịch sử - cụ thể. Trong khi đó. Hiếm ai có thời gian để nghĩ. Việc rút kinh nghiệm kí vãng…nên thuận tiện hơn. Viết trong chiến tranh mang một ý nghĩa rất khác: Nó là viết tại chỗ.

Nặng nề. Mối liên can con người và chiến tranh… Nghệ thuật cũng đa dạng. Không có gì phải bi quan. Không nên quy vào tội. Người ta nói. Nhà văn Khuất Quang Thụy: Sau năm 1975. Để đời. Lúc ấy dù chiến tranh đã lùi rất xa. Nhà văn với nhân cách là một nghệ sĩ - đội viên không chỉ đổ mồ hôi. Để có những tác phẩm hay về chiến tranh.

Các công cụ nghe nhìn chỉ là cái nhất thời. Chính Hữu. Nhà văn Sương Nguyệt Minh: Tôi nghĩ rằng: Để sáng tác hay về đề tài chiến tranh thì trải nghiệm là lợi thế của các nhà văn đã từng áp điệu chiến trường. “Nỗi buồn chiến tranh”. Nhà văn đi qua chiến tranh cũng mắc nợ với chính mình nữa. Cơi nới biên độ. “Chiếc lược ngà”. Cứu người trước đã. Lê Minh Khuê…vv… Tôi nghĩ rằng: văn học sử sẽ chẳng thể bỏ qua những sáng tác xuất sắc về đề tài chiến tranh như: “Tây Tiến”.

Những cuộc thi. Hào kiệt nhà văn quyết định sẽ viết như thế nào. Thực hiện lý tưởng “Không có gì quý hơn độc lập. Tâm trạng… thời chiến tranh để sáng tạo nên những tác phẩm hay về đề tài này

Thành tựu và những thách thức mới

Làm thế nào để có nhiều tác phẩm hay về đề tài chiến tranh không chỉ là khát vọng sáng tạo của nhà văn mà còn là mong muốn chung của độc giả. Nhân dịp kỷ niệm 39 năm Ngày phóng thích miền Nam.

Có thể nghĩ khác và viết khác đi. Thơ… tiêu biểu sẽ trường tồn vì sự đóng góp đó.

Khuất Quang Thụy. Đặc biệt những tác giả có gia đình. Nhà thơ Anh Ngọc: Tôi nghĩ rằng: Trái chín có mùa. Họ sẽ viết sâu hơn.

Về tâm lý sáng tạo. Văn chương còn chức năng đặc thù của chính nó là từ các chất liệu cập nhật.

Nhưng điều đó không quan yếu và quyết định thành bại. Nguyễn Hữu Quý. Phạm Sĩ Sáu và Sương Nguyệt Minh xung quanh chủ đề này. Nhà văn Sương Nguyệt Minh: Nhà văn đoạt Giải Nobel Gabriel Garcia Marquez nói rằng: “cuối cùng văn chương cũng chính là nghề mộc. Đúng. Những tác phẩm quan yếu nhất đời văn.

Tuy nhiên. Phần việc của tương lai văn chương về đề tài chiến tranh thuộc về các nhà văn trẻ cách mình nhiều đời. Tỉ như bây giờ nói phấn đấu “ăn no mặc ấm” thì có thể không có tác dụng kích cầu để phấn đấu bằng “ăn ngon mặc đẹp”. Con người cá nhân hình như bị khỏa lấp trong sự kiện chiến tranh. Bìa cuốn tiểu thuyết “Mùa hè buốt giá” viết về đề tài chiến tranh của nhà văn Văn Lê từng được nhận giải thưởng cao của Bộ Quốc phòng và Hội Liên hiệp VHNT Tp HCM.

Văn học về đề tài chiến tranh có công lớn là góp phần xây dựng một lý tưởng thẩm mỹ cho cả một thời đại và hướng dẫn bạn đọc tiếp cận thẩm mỹ ấy.

Nguyễn Duy. Tôi còn nhiều cái để viết mà chưa viết được vì nhiều lý do. Mở rộng trường liên tưởng và đa thanh. Thống nhất đất nước. Phong phú hơn về điểm nhìn. Rồi chống Mỹ. Tôi thì viết về chiến tranh chỉ đơn giản là tôi có một chút vốn liếng. “Núi đôi”. Nhà văn Sương Nguyệt Minh: văn chương về đề tài chiến tranh đang đứng trước những thử thách tìm lại bạn đọc.

Cấp thiết phải chuyển từ “văn học tả trận” đến “văn học chiến tranh” theo đúng nghĩa rộng của từ này. Chứ ai có thời kì mà đặt câu hỏi: Vì sao cháy? Có cách nào tránh được đám cháy ấy không? Nhà văn chỉ có điều kiện quan sát cuộc chiến chứ chưa có thời gian để nghĩ suy sâu xa về cuộc chiến.

Đặc biệt là những thứ viết tại chỗ mà có nhãn quan vượt thời gian thì rất quý. Mà là theo trải nghiệm mới - hiểu là trải nghiệm của tài năng - đó là trí tưởng tượng của nhà văn. Của cải có thất thiệt thì hẵng để đấy. Nguyễn Quang Thiều. Họ sẽ là những người cống hiến cho độc giả những tác phẩm mới và hay về chiến tranh. Lê Minh Quốc. Tụng ca quần chúng…Nên coi đấy là đặc điểm. Văn Lê. Nhưng phần quan trọng hơn là chỉ lấy chiến tranh Việt Nam như cái cớ.

Yếu tố thị trường không tác động nhiều lắm đến cá nhân sáng tác đề tài này. Ta giỏi thì quá đơn giản. Tôi tin thế! Nhà lý luận. Bằng anh tài và nhiệt huyết. Dostoevsky ví như con ngựa trạm. Chuyên đề VNCA xin trân trọng giới thiệu cuộc bàn thảo của các nhà văn. Không thay đổi

Thành tựu và những thách thức mới

Trong đó có cái nhìn và tư duy tầng lớp học. Ký ức thường không ngủ yên. “Hòn Đất”.

Đoàn Tuấn. “Chim én bay”. Họ vẫn có thể mã hóa được hiện thực. Chỉ viết cho thị phần bạn đọc số ít này cũng đã là hạnh phúc. Hình như họ cũng đã làm xong rồi. Nguyễn Khắc Trường. Lối sống. Anh Đức. Thi sĩ Anh Ngọc: Dòng văn chương viết về người lính cách mệnh và chiến tranh chống ngoại xâm của ta ra đời cùng lúc với cuộc chiến tranh chống Pháp.

Nhà văn Khuất Quang Thụy: hiện nay bắt chúng tôi viết lại giống như ngày trước cũng không viết nổi. Thời đoạn trước thì viết thô giản một chiều; tuổi sau thì đã bung phá.

Tuy nhiên. Như nhà văn Sương Nguyệt Minh đã đặt ra. Khung cảnh buổi tọa đàm “văn chương về đề tài lực lượng vũ trang và chiến tranh cách mạng sau năm 1975” do Báo Quân đội dân chúng tổ chức tại Hà Nội ngày 17/4/2013. Coi sóc của thời kì sẽ đẻ ra một mùa thu hoạch.

Nơi dễ biểu lộ tính cách nhất. Có bạn bè. Ở ta nối hình thành một đội ngũ sáng tác về đề tài chiến tranh như: Dương Hướng.

Hay là viết về đề tài chiến tranh nói chung? Tôi nghĩ. Khó mà trả cho xong những món nợ với thế hệ mình. Phát triển và tìm tòi sáng tạo. Văn chương về đề tài chiến tranh đã góp phần xứng đáng vào thắng lợi của cuộc chiến tranh phóng thích dân tộc. Bên cạnh chức năng phục vụ trực tiếp cho chính trị (kể cả chính trị tiến bộ). Phán xét những hạn chế của văn chương về đề tài chiến tranh phải đặt vào tình cảnh lịch sử cụ thể.

Nhà thơ Phạm Sỹ Sáu: Do phục vụ cái trước mắt nên tiếng lòng của nhân vật phần nào bị làm lu mờ đi. Không nên “đương đại hóa” cách nhìn quá khứ. Thi sĩ Phạm Sỹ Sáu: Với tôi luôn là món nợ dần trả.

Người ta mới có thời kì đi sâu vào giảng nghĩa chiến tranh bằng nhiều cái nhìn khác nhau. Nhà văn chỉ dừng ở miêu tả chiến trận (kể cả các nhà văn phía bên kia).

Tâm lý học. Viết bằng sự máu nóng. Vương Trọng. Tư liệu kiệt rồi. Cần phải viết khác đi. Còn đã viết thì phải tâm huyết.

Nguyễn Đức Mậu. Ai viết. Trên báo Quân đội dân chúng Cuối tuần. Sau chiến tranh. Hàng ngũ sáng tác về đề tài chiến tranh kể mãi không hết. Phan Tứ. Phạm Tiến Duật. Trần Quang Quý. Cũng song song là phương pháp nghệ thuật. Đề cao mẫu người anh hùng. Qua tiếp xúc và qua cảm nhận đời

Thành tựu và những thách thức mới

Để viết những tác phẩm vĩ đại. Ví như văn hào Nga thế kỉ XIX Lev Tolstoy đã viết kiệt tác “Chiến tranh và hòa bình” sau cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại 1812 của dân chúng Nga đến nửa thế kỉ.

Nguyễn Đình Thi. Thi sĩ: Khuất Quang Thụy. Tả thực là xu hướng chủ đạo. Với những người đã ngã xuống vì sự nghiệp thống nhất giang san.

Giờ. Và họ sáng tác theo cách của mình. Tâm lý nhân vật cũng phải khác. Nhà lý luận. Sự thổn thức. Thi sĩ Anh Ngọc: Vẫn có hai cách tiếp cận và hai mục đích: Viết về cuộc chiến tranh của Việt Nam trong thế kỷ XX. Nhất là sự cởi mở của đường lối văn nghệ. Và tự thân cũng muốn viết về mối quan hệ giữa con người với con người trong chiến tranh ác liệt. Có cả cái tươi rói và sự hạn chế không tránh khỏi….

Sao lại khác nhau đến thế? Cũng nhà văn ấy. Đó vừa là sự tiến bộ của nhà văn vừa là tâm thế thời đại. Cạnh tranh với các phương tiện truyền thông hiện đại và các loại hình nghệ thuật đương đại. Võ Thị Hảo. Nhưng. Nhà lý luận. Hơi thở của thời đại. Có nhu cầu phản ánh cuộc sống và chia sẻ cuộc sống.

Nhà văn Khuất Quang Thụy: Theo tôi chẳng có gì phải bi quan. Nguyên Ngọc. Hỗ trợ văn chương chỉ có thể tạo ra một hệ thống tác phẩm nền tảng.

Nhất là những người không sống trong chiến tranh thì một mặt tìm hiểu tài liệu gián tiếp và vận dụng nhân tài hư cấu để vẫn tái hiện cuộc kháng chiến của Việt Nam. Một giọng văn. Người lại cảm thấy mình đã hoàn thành nhiệm vụ của một nhà văn Quân đội. Thi sĩ Anh Ngọc: Như một dụng cụ của chính trị - cần thiết và tiến bộ - văn chương kháng chiến đã hoàn thành nhiệm vụ. Trong cảnh ngộ giang san hòa bình và hội nhập toàn cầu.

Tôi lại nghĩ đến sự tâm huyết của những người viết trẻ về đề tài này. Có thể họ không trải qua chiến tranh. Đa sắc… Thật đáng mừng vì văn chương về đề tài chiến tranh càng ngày càng phong phú. Lê Lựu. Người Việt Nam không phải kém cỏi gì về năng lực sáng tạo văn học. Văn học về đề tài chiến tranh trước 1975 có những đặc điểm như đề cao vẻ đẹp lý tưởng.

Mỗi nền văn học cũng có “thời” của nó. Văn chương về đề tài chiến tranh lại đang đứng trước thử thách mới về hàng ngũ.

Nước mắt mà còn hy sinh cả máu xương. Thân phận con người trong chiến tranh. Còn tác phẩm đỉnh cao lại thuộc về tuấn kiệt cá nhân chủ nghĩa.

Các tác giả đi qua chiến tranh sẽ thưa vắng dần theo quy luật thời gian. Vốn có tí thì đừng mài mãi.

Nơi đã vun đắp và giữ gìn lý tưởng sống cao cả của con người Việt Nam. Người viết cần có cái nhìn khách quan hơn trên cơ sở tài liệu được đọc. Còn viết sau thì cả điều kiện chủ quan lẫn khách quan. Viết đúng sẽ có người đọc. Nhà văn luôn mắc nợ với cuộc sống

Thành tựu và những thách thức mới

Khác như thế nào thì khó quá. Tôi cứ băn khoăn: Cũng là nguyên liệu chiến tranh “cứng như gỗ” nhưng văn học về đề tài chiến tranh thời đoạn từ năm 1945 đến 30/4/1975 và sau ngày 30/4/1975 đến nay. Vì chúng ta không thể tu sửa được kí vãng. Phê bình Bùi Việt Thắng: Nhìn tổng thể bức tranh văn học Việt Nam nửa sau thế kỉ XX thì văn học về đề tài chiến tranh vẫn là cái còn lại đáng để nói với hậu thế và bạn bè quốc tế.

Vũ Cao. Đồng thời. Họ là cái nhỏ chung trong cái lớn chung. “Cỏ lau”. Nhà văn chỉ tiếp cận được hiện thực. Dù quỹ thời kì còn ít ỏi. Trại sáng tác. Đã tâm huyết thì ở tình cảnh nào cũng không bỏ. Bùi Việt Thắng. Phê bình Bùi Việt Thắng: văn chương về đề tài chiến tranh thời đoạn trước 1975.

Nhà lý luận. Cánh đồng hiện thực chiến tranh “màu mỡ” lắm. Ý chí. Những người máu nóng với văn chương về đề tài chiến tranh (cả tác giả và người đọc) vốn là số ít.

Làm nên diện mạo cốt yếu của văn học Việt Nam đương đại. Sâu…- bất kể viết lúc nào. Thi sĩ Phạm Sỹ Sáu: Sự dị biệt rõ nhất là người lính trong văn học sau tháng tư 1975 đã có số mệnh hơn. Nguyễn Khải. Văn chương kháng chiến của ta làm được chưa nhiều. Cố nhiên phải viết khác trước. Y Ban… Một số nhà văn trẻ bây chừ cũng rất tự tín khi cầm bút “xông vào” đề tài này.

Tôi chỉ đợi chờ những hào kiệt văn học mới xuất hiện. Đừng bày biện ra… thi sĩ Anh Ngọc: Nói về cần lao nhà văn. Chỉ còn chờ vào một lối viết mới ở các nhà văn trẻ khác hẳn thế hệ cha anh.

Góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Các tác phẩm viết sau năm 1975 về đề tài này góp phần làm phong phú thêm bức tranh văn học về đề tài chiến tranh ở Việt Nam. Dĩ nhiên. Nếu có niềm tự hào nào về văn chương dân tộc thời hiện đại thì đó là văn chương về đề tài chiến tranh. Chỉ lo không có hào kiệt để sáng tác thôi.

Chu Lai. Nhưng các nhà văn trẻ chưa phải - chưa được cầm súng ở mặt trận lại có cách tiếp cận chiến tranh riêng. Nhà lý luận phê bình Bùi Việt Thắng: Tôi không bi quan về văn học đề tài chiến tranh.

Người nhà. Nhà văn viết về chiến tranh. Về cuộc sống hiện đại này thì mới bị cạnh tranh. Nhà thơ Phạm Sỹ Sáu: Tôi nghĩ. Dù trong đời sống văn chương có tác giả 40 năm nay vẫn viết bằng một cái nhìn. Chất liệu sống để viết về đề tài chiến tranh nói chung. Trung Trung Đỉnh. Một nguyên liệu cũng cứng như gỗ”. Mãi mãi đồng hành với con người… Về mặt này. Hăng hái cầm khí giới chống chọi và phục vụ đương đầu… Đó là một nguồn sức mạnh có thật và có tác động to lớn vào thắng lợi rút cục của dân tộc.

Mỗi người có “thời” của mình. Sinh động và sâu sắc hơn. Đúng là khác nhau

Thành tựu và những thách thức mới

Chứ xúc cảm kiệt.

Nhà lý luận. Tôi tin các nhà văn trẻ. Thi sĩ Anh Ngọc: Viết trong và viết sau chiến tranh. Cần đánh giá đúng sự đóng góp tại chỗ này.

Anh Ngọc. Nợ với cái phần đời mình đã sống thời chiến tranh ấy. “Tổ quốc đứng lên”. Bởi vậy đừng lo âu với câu hỏi: Viết như thế nào? Thời giờ. Thanh Thảo. Những tác phẩm văn xuôi. Thành quả đã trở nên kí ức sống động. Phê bình Bùi Việt Thắng: văn học về đề tài chiến tranh ở Việt Nam có thể chia ra làm hai thời đoạn. Suốt 30 năm nghe đâu chiếm vị trí độc tôn trên văn đàn.

Và gần với hơi thở cuộc sống bây giờ mà họ quan tâm. Nhà văn Sương Nguyệt Minh: Hiện thực chiến tranh là cái đã qua rồi. Nếu cần có một so sánh thì có thể nói ngắn gọn: văn học/nhà văn thời chiến tranh đã hoàn tất nhiệm vụ của nó - góp hết sức mình vào công cuộc giải phóng sơn hà. Nhà văn Khuất Quang Thụy: Chỉ còn chờ vào sự đột biến của lớp nhà văn già đi qua chiến tranh.

Hãy đợi đấy! Nhà thơ Phạm Sỹ Sáu: Các nhà văn trẻ có cái nhìn về chiến tranh thông qua tư liệu và tài liệu. Nhưng cần đánh giá đặc biệt cao với những người và tác phẩm viết ngay trong chiến tranh. Nên cứ trằn trọc về nó. Nay đọc lại bạn đọc thấy chưa thỏa mãn. Nhưng thiết nghĩ. Phê bình Bùi Việt Thắng: Cách đây chưa lâu.

Chưa kịp sáng tạo trong cảnh ngộ chiến tranh hủy diệt. Hơn là những gì mà họ xem là xa lắc. Người viết về chiến tranh đang ít dần đi. Cần phải chờ xa hơn nữa để có một thế hệ trẻ mới khác hoàn toàn những người đang viết hiện. Đừng nghĩ nó sẽ biến mất khỏi văn đàn. Nó phải đạt đến then chốt của bản chất văn chương là tính phổ cập và vĩnh cửu - nghĩa là tính triết học.

Các nhà văn trẻ lại không đằm thắm lắm với cái đề tài quá kén chọn người viết này. Mọi sự so sánh đều khập khiễng. Đặng Huy Giang. Tôi thấy nhiều người viết vì cảm thấy mình vẫn mắc nợ với đồng đội. Nhà văn Khuất Quang Thụy: Chiến tranh ác liệt cuốn người viết vào chiến trường.

Nhìn từ đề nghị ấy. Như nhà văn Khuất Quang Thụy nói: khi nhà đang cháy thì tất tật phải lao vào dập lửa. Nên nhà văn viết về chiến tranh chẳng cần phải cạnh tranh với ai. Tự do”. Khăng khăng sẽ đến một ngày những vun bón.

Nguyễn Minh Châu. Đầu tư tiền của… chỉ là hỗ trợ. Môi trường. Vừa như những chứng nhân tâm hồn của một thời vừa như những hiện vật bảo tồn lưu giữ bức tranh tâm hồn của thời đại cho con cháu mai sau. Nhà văn Khuất Quang Thụy: Nếu viết do “nợ nần” trong chiến tranh thì tôi thấy tôi đang nợ chính mình.

Có đồng đội chết trong chiến tranh thì tâm lý mắc nợ càng nặng nề. Thời chiến trận.

Nguyễn Văn Thọ.

No comments:

Post a Comment