Hơn nữa, một số phim của ta chưa quyến rũ bởi cách làm nặng về hô hào khẩu hiệu theo những công thức chung vốn đã định hình “ta thắng địch thua, ta tốt địch xấu”
Tiến sỹ Lê Thị Bích Hồng Phó Vụ trưởng Vụ Văn nghệ - Ban truyền giáo Trung Ương. Còn mặt tự giác là việc chủ động đưa tinh thần dân tộc vào phim nhằm tạo những giá trị cao về nội dung và nghệ thuật. Cũng như các loại hình văn học nghệ thuật khác, tính dân tộc trong tác phẩm điện ảnh Việt Nam trình bày ở rất nhiều góc cạnh, nhưng tập trung rõ nhất ở ba mặt: Tư tưởng, tâm hồn và những nét sinh hoạt của một dân tộc.
Phim nhớ thương đồng quê phản ảnh sự xao động đổi thay từ tâm sự đến nhịp sống bình thường của làng quê vốn êm đềm sau lũy tre xanh. Sau năm 1975, không khí hân hoan của sơn hà hòa bình, hợp nhất đã tạo nên môi trường kích thích và đòi hỏi cao sự sáng tạo của người nghệ sỹ, đặc biệt tính dân tộc trong cảm hứng sơn hà hợp nhất. Dưới bề mặt hiện thực ta cảm nhận những triết lý sống sâu sắc của dân tộc, là chiều sâu của tâm hồn con người Việt Nam, cuộc sống linh tính trong mối quan hệ khắn khít với truyền thống dân tộc.
Đạo diễn Nguyễn Thanh Vân tạo ra một Đời cát rất nhẹ nhàng song những thương tổn thì không kể xiết. Tính sử thi “nhạt dần” nhường cho nguyên tố sử thi để từ đó hé mở thân phận con người cùng những mất mát, hy sinh.
Đã xuất hiện quan niệm sai trái, rằng để xây mái nhà chung cho cả nhân loại phải thủ tiêu dần những nét riêng của từng dân tộc, rằng điều này đúng với mọi lĩnh vực không loại trừ cả văn hóa, văn nghệ.
Điện ảnh thời kỳ đổi mới có những thể hiện phong phú của tính hiện đại và tính dân tộc. Cũng cùng chủ đề trên, nhưng khi có “độ lùi” thời kì, tách khỏi cuộc chiến, những tác phẩm điện ảnh đó sàng lọc để nhìn cuộc chiến bình tĩnh và có chiều sâu hơn vì có được vốn sống và sự trải nghiệm.
Nội dung tác phẩm sẽ mang tính dân tộc khi người sáng tác đề cập đến những vấn đề then chốt, quan thiết của giang sơn, phản chiếu những suy nghĩ, tâm tư, tình cảm của những con người trong cộng đồng…Hình thức miêu tả sẽ mang tính dân tộc khi nội dung tác phẩm được chuyển tải lên màn ảnh theo đúng cách nghĩ, cách cảm của dân tộc đó, bằng hình ảnh và âm thanh đặc trưng…”.
Một số phim truyện được quốc gia đầu tư nhân các sự kiện lịch sử trọng đại, như phim Hoa ban đỏ nhân 50 năm giải phóng Điện Biên Phủ, Ký ức Điện Biên nhân 55 năm phóng thích Điện Biên Phủ, phim Hà Nội 12 sớm hôm , phim Mùi cỏ cháy nhân 40 năm phóng thích Quảng Trị… Đặc điểm trội của phim truyện chiến tranh cách mạng là tính sử thi, tập hợp ngợi ca con người với những phẩm chất cao quý như một di sản ý thức quý của dân tộc: lòng yêu nước, căm thù giặc, tinh thần đương đầu quả cảm, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp chung.
Phim Đời cát là câu chuyện trái ngang của những con người sau cuộc chiến. Các nhà làm phim đã có thời kì tách khỏi cuộc chiến để chắt lcocj những chi tiết có sức nặng. Nhiều phim truyện ra đời, đa dạng hơn chủ đề: Phim Sao Tháng Tám, Ngày lễ Thánh, Mối nguồn cơn (1977), Tiếng gọi phía trước, Hà Nội mùa chim làm tổ (1978), Cánh đồng hoang, Mẹ vắng nhà, thú tội trước rạng đông (1979)
Cảnh trong phim ca ve Tính dân tộc của nghệ thuật điện ảnh biểu lộ ở hai mặt là nội dung tác phẩm và hình thức miêu tả. Cách sống tế nhị, kín đáo của người Việt Nam, cùng vẻ đẹp thuần khiết mang tâm hồn Việt đã thấm vào các nhà làm phim, giúp họ sáng tạo để miêu tả những diến biến tình cảm tế nhị của nhân vật.
Tiếp đến là Kiếp phù du, Phạm Công Cúc Hoa … cho tới sau này là Long Thành cầm giả ca, Thiên mệnh anh hùng, Mỹ nhân kế. #, Tính dân tộc không chỉ bộ lộ một chiều “tô hồng” nhằm suy tôn con người chuyên cần trong lao động, gan dạ trong đấu tranh mà còn phơi bày cả những thụ động của con người, mặt trái của tầng lớp. Nhiều bộ phim đi theo mạch cảm xúc đó đã khiến người xem xúc động ở phía hậu trường về với những mất mát không kể xiết, như Bao giờ cho đến Tháng Mười , Truyện cổ tích cho tuổi mười bảy , Bến không chồng , nhớ thương đồng quê (1995).
Tuy vẫn mang âm hưởng chiến tranh, nhưng một số phim truyện đã đề cập và đi sâu phân tích những bi kịch cá nhân chủ nghĩa, thân phận con người trong và sau chiến tranh. Được xây dựng từ một cốt truyện hoàn chỉnh, hoặc được gợi ý hoặc chuyển thể từ tác phẩm văn học, nhân vật trong phim truyện bao giờ cũng được xây dựng theo hai tuyến rõ rang đối lập với nhau như “nước với lửa”: chính diện và phản diện, chính và tà, trung và nịnh, thiện và ác…Kết thúc phim thường có hậu.
Phim truyện phục vụ nhiệm vụ chính trị của dân tộc là đánh đuổi ngoại xâm, giành độc lập và hợp nhất sơn hà. Những phẩm chất được phản ảnh trong phim liên tưởng đến đặc điểm của tính dân tộc và tính hiện đại. Thập niên 80-90 của thế kỷ trước là thời kỳ “hoàng kim” của phim truyện với nhiều đề tài, gồm: Ván bài lật ngửa, Làng Vũ Đại ngày ấy, Bao giờ cho đến tháng Mười, Thằng Bờm, Đêm hội Long Trì, Kiếp phù du, Số đỏ, Vị đắng tình, Nước mắt học sinh, Hoa ban đỏ … Từ năm 2000 đến nay, phim sản xuất tại Việt Nam và phim sản xuất tại nước ngoài nhưng có sự tham gia của người Việt, nội dung cốt xoay quanh các vấn đề của người Việt như: Mùa hè chiều thẳng đứng, Vật đổi sao dời, Mê thảo thời vang bóng, Gái nhảy, Mùa len trâu, Đường thư, Những cô gái chân dài, Thời xa vắng, Hà Nội Hà Nội, Sống trong sợ hãi, Áo lụa Hà Đông, Dòng máu anh hùng, Nụ hôn thần chết, Cô dâu đại chiến, Hot boy nổi loạn, và câu chuyện về thằng Cười, cô điếm và con vịt, Mỹ nhân kế … Trong điện ảnh, tính điện ảnh được xét trên hai mặt: Tự giác và tự phát.
Đời sống tâm hồn con người Việt Nam biểu đạt trong phim một cách hiền lành, tinh tế.
Những phim truyện đã tụ hợp đề đạt cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, như Lửa trung tuyến, Vợ chồng A Phủ, Con chim vành khuyên, Người đội viên trẻ, Nguyễn Văn Trỗi, Nổi gió, Lửa rừng, Tiền tuyến gọi, Chị Nhung, Vĩ tuyến 17 ngày và đêm, Bài ca ra trận ….
Nhân vật xây dựng sơ sài, cứng nhắc, thường theo mẫu số chung, đại diện cho cái chung, ít cá tính sáng tạo. Có thể thấy, tính dân tộc đa dạng về chủ đề, đồng hành cùng lịch sử dân tộc. Điều quan trọng là ý thức nhân văn của phim Việt được miêu tả theo tâm hồn, cốt cách Việt Nam, tạo nên nét đặc sắc của tác phẩm… Trong hình thức trình diễn.
Ba nhân vật bằng những điểm tựa khác nhau, đều hướng về quê nhà, đều một long nhớ thương đồng quê da diết: người vượt biên sống nơi đất khách quê người, nay trở về thăm lại làng xưa với bao nỗi niềm nhớ thương; người thì an phận sống tần tảo, lặng thầm chờ chồng đi xa làm ăn; và người thì gắn một thời tuổi thơ với đồng quê, đến khi gia nhập quân ngũ, vẫn không sao dứt được mối cảm thương đồng quê da diết…Phim Sống trong sợ hãi nói về số mệnh người lính Việt Nam cộng hòa đi gỡ bom mìn để sống.
Ở một số phim, sự kết hợp giữa tính đương đại và tính dân tộc còn chưa nhuần nhuyễn, làm giảm sức mạnh của hình tượng và sự thuyết phục của tác phẩm
Tư duy của người sáng tác cũng có sự đổi mới để bắt nhịp được với thời đại và trở thành chiếc cầu nối giữa truyền thống và đương đại”.
Phim cổ trang chưa phải là thế mạnh của chúng ta, song một số bộ phim cổ trang lấy đề tài từ văn chương dân gian, văn học trung đại đã phần nào cho thấy bóng dáng dân tộc. Nhiều bộ phim tạo được ấn tượng đẹp cho khán giả bởi chính tâm hồn dân tộc: Đêm hội Long Trì , Kiếp phù du , Canh bạc , Hãy dung tha cho em , phim Vị đắng ái tình , nhớ thương đồng quê (1995), Đời cát (1999)… Phim Canh bạc âm thầm khơi mạch nguồn cuộc sống của nhân dân.
Tư duy của người sáng tác cũng có sự đổi mới để bắt nhịp được với thời đại và trở thành chiếc cầu nối giữa truyền thống và hiện đại. Theo đó, ở mặt tự phát, nhà làm phim phản ánh hiện thực cuộc sống của dân chúng theo nghĩ suy và tình cảm xuất hành từ “gen” dân tộc của mình. Dưới bề mặt hiện thực ta cảm nhận những triết lý sống sâu sắc của dân tộc, là chiều sâu của tâm hồn con người Việt Nam, cuộc sống tâm linh trong mối quan hệ mật thiết với truyền thống dân tộc.
Phim Cây khuynh diệp vô danh là chuỗi những mất mát và nỗi cô đơn trong chiến tranh, sự thảm khốc, khốc liệt của những chiến tranh không chỉ ở tiền phương mà cả ở hậu phương trong sự chờ, đơn chiếc, thèm khát, giằng xé của những người vợ, người mẹ, người cha có người nhà nơi trận mạc.
Tính nhân văn là một điểm mạnh của phim truyện, có sức mạnh chinh phục mang tính toàn cầu. Những vui buồn, thở than, day dứt của những con người hậu chiến được khắc họa một cách chân thực không tả nhiều bằng lời mà bằng chính sự phức tạp của thế giới nội tâm. Đặt trong bất kỳ một thời kỳ lịch sử nào, phim truyện đã miêu tả bao nguyên tố đó ở chủ nghĩa anh hùng cách mạng với tinh thần yêu nước, sẵn sang hy sinh vì độc lập tự do của sơn hà, ở chủ nghĩa anh hùng bình dị với cuộc sống giản dị, thông thường, sự gắn bó với ông bà ông cha, mối quan hệ gắn kết hữu cơ giữa gia đình và xã hội; ở chủ nghĩa nhân văn cao cả.
Kể từ bộ phim truyện nhựa trước nhất của miền Bắc Việt Nam sau năm 1954 và cũng là bộ phim truyện đầu tiên của Nguyễn Hồng Nghi và Phạm Hiếu Dân, Hãng phim truyện Việt Nam) ra đời cho đến nay có thể thấy phim truyện đã thể hiện ở sâu sắc tâm hồn dân tộc qua từng thời kỳ lịch sử và chính những tác phẩm đó đã góp vào thành quả chung của điện ảnh cách mệnh Việt Nam 60 năm qua.
Những phẩm chất được đề đạt trong phim can dự đến đặc điểm của tính dân tộc và tính đương đại, nhưng có điều khuôn khổ của nhiều tác phẩm, nhất là phim chiến tranh cách mạng của chúng ta mới dừng ở phạm vi nội địa, mà chưa vươn tầm ảnh hưởng quốc tế.
Đây không phải là đặc trưng riêng của Việt Nam, song tính nhân bản lại mang tâm hồn dân tộc của chính quốc gia đó. Đó cũng là niềm mong ước của khán giả. Phim Bao giờ cho đến tháng Mười là một bộ phim tâm lý mang đậm bản sắc dân tộc và chính bản sắc dân tộc biểu thị sâu sắc đó đã tạo nên thành công của điện ảnh Việt Nam những năm đầu thập niên 1980.
Sự hòa đồng giữa con người với tự nhiên đã tạo nên chất thơ trong nhiều bộ phim biểu lộ đậm đặc hoặc thập thò nét trữ tình. Bản sắc dân tộc tả sâu sắc trong dòng phim cổ trang với một trong những bộ phim được đáng giá cao về mặt nghệ thuật cũng như diễn xuất là phim Đêm hội Long Trì.
No comments:
Post a Comment