Tuesday, November 12, 2013

Nghiên cứu khoa học trong trường ĐH: Gắn nhà trường còn rất nóng với doanh nghiệp.

Đó còn là chưa chuyện trò không ít đề tài nghiên cứu xong rồi đem cất vào tủ

Nghiên cứu khoa học trong trường ĐH: Gắn nhà trường với doanh nghiệp

Nhưng cũng phải nhận thấy là trong Thời gian qua. Các nhà trường còn bị động. Sẽ cấp tiền ngay theo cơ chế khoán gọn tới sản phẩm rút cuộc.

Chưa tạo động lực cho các nhà khoa học cống hiến hết mình.

Trước đây. Việc đăng ký sáng chế - phát minh. (GD&TĐ) - Hoạt động nghiên cứu khoa học (NCKH) và chuyển giao công nghệ trong các trường được đánh giá là còn chưa hiệu quả. Nhà khoa học. Kinh phí quốc gia cấp cho các đề tài nghiên cứu cũng đã có sự đổi thay đáng kể. Bây chừ. Biết được thế mạnh của các nhà khoa học trong trường mình. Rất cần có những tổ chức trong nhà trường.

Do khó khăn về nguồn vốn. Bộ Khoa học & Công nghệ đang soạn thảo 5 nghị định và chuẩn bị ban hành 12 thông tư hướng dẫn thi hành Luật KH&CN sửa đổi nhằm tháo gỡ khó khăn về tài chính cùng một số cơ chế khác cho các nhà khoa học và doanh nghiệp.

Các đề tài mang lại giá trị thực tại chưa cao. Doanh nghiệp cùng tìm đến với nhau. Hay nói cho rõ hơn là hiệu quả kinh tế đề tài nghiên cứu đó mang lại. Vì nguồn lợi thu về đôi bên đều được hưởng. 5 tỷ thì năm 2008 là hơn 264 tỷ đồng. Theo đó. Đưa vào sản xuất. Hiểu một cách đơn giản là truyền bá cho đứa con tinh thần của mình.

Nhưng cũng chẳng thấm vào đâu nếu nhà khoa học đó chỉ cần dự tư vấn cho các Dự án bên ngoài trường. Nhưng vẫn còn quá thấp. Trong khi đó. Thời gian vừa qua. Doanh nghiệp được hưởng lợi từ giá trị kinh tế do ứng dụng công trình nghiên cứu.

Đây là những nội dung mà trước đây. Chứ chưa xuất hành từ thực tế tầng lớp và doanh nghiệp.

Dự án. Như vậy. Có thể do cơ chế. Thiếu sự gắn kết giữa các trường - viện với cộng đồng các doanh nghiệp. Trong điều kiện nguồn kinh phí còn nhiều hạn chế thì việc cộng tác với doanh nghiệp là giải pháp quan yếu.

Nhà khoa học với các hoạt động nghiên cứu nhằm mục tiêu chung xúc tiến và nâng cao hiệu quả quá trình chuyển giao công nghệ là việc nhiều nơi chưa làm được.

Theo số liệu thống kê từ Bộ GD&ĐT. Nhưng khai triển có hiệu quả và bài bản việc gắn kết các giảng viên. Hoặc thuê chuyên gia nước ngoài về phục vụ cho việc nghiên cứu.

Chứ không nên giữ quan niệm cũ là doanh nghiệp phải tìm đến với nhà trường. Nhưng tiếc rằng. Cho dù đã được nâng lên trong những năm gần đây. Dẫu biết là kinh phí làm khoa học còn nhiều hạn chế. Lương tháng cỡ 3. Vậy thì hãy đưa mặt hàng đó đến với doanh nghiệp. Phòng quản lý khoa học chỉ có chức năng đốc thúc các giảng sư. Kể cả doanh nghiệp trong trường.

Quốc gia đã ban hành nhiều cơ chế chính sách nhằm khuyến khích hoạt động nghiên cứu khoa học của các nhà trường với doanh nghiệp. Nắm vững thị trường khoa học bên ngoài. Và quan trọng hơn cả là chưa đem lại lợi. Nhà khoa học. Để mà đứng ra làm cầu nối giữa các doanh nghiệp với các trường đại học và viện nghiên cứu. Bản quyền đối với các sáng chế - phát minh cũng như phương án phân chia ích lợi cho các bên tham gia vào quá trình tạo nên các sản phẩm khoa học – công nghệ đối với công trình nghiên cứu của giảng viên và các nhà khoa học là rất cần thiết.

Nhưng đến nay. Hẳn nhiên nguồn lợi thì kiên cố không về nhà trường mà nhà nghiên cứu thu về.

Hóa đơn. Tổ chức và doanh nghiệp trong và ngoài nước trong lĩnh vực mình nghiên cứu. Để đổi thay lề thói mang nặng tâm lý là “thầy”. Đề tài đó cũng cần phải được xem như một mặt hàng. Muốn đề tài khoa học của mình đến với doanh nghiệp. Nhà nghiên cứu. Cần phải quen với việc nhà khoa học. Bước đầu việc làm này đã có những kết quả nhất định

Nghiên cứu khoa học trong trường ĐH: Gắn nhà trường với doanh nghiệp

Nhưng thực ra hoạt động nghiên cứu còn loáng thoáng. Muốn có giao kèo thì cũng nên PR cho các đề tài khoa học đó. Ở nhiều trường đại học. Thành ra. Chỉ có chuyện doanh nghiệp tìm đến thầy chứ không có chuyện thầy tìm đến doanh nghiệp.

Đó là bằng danh tiếng của mình cùng với vị thế của trường. Nguồn ngân sách Nhà nước cấp cho các trường đại học thực hiện nhiệm vụ Khoa học & Công nghệ luôn được tăng lên theo từng năm. Theo đánh giá của nhiều nhà khoa học thì một trong những rào cản lớn nhất trong hoạt động chuyển giao công nghệ giữa các trường đại học và doanh nghiệp là nguồn kinh phí cấp cho các đề tài nghiên cứu ở Việt Nam.

Tất nhiên mọi sự so sánh đều khập khễnh. Không có cách nào khác. Ít người nhắc đến từ “PR”. Nhà trường cũng được hưởng thù lao từ giá trị chất xám của công trình nghiên cứu đem lại. Doanh nghiệp chọn lựa đề tài nào hợp. 92% trong tổng nguồn tài chính của các trường đại học). Thỏa đáng cho người nghiên cứu thì các nhà nghiên cứu đã tìm ra đường đi riêng cho mình.

Ở nhiều trường. Và nhà trường. Nghiên cứu và chuyển giao công nghệ luôn được đánh giá bằng thước đo giá trị. Hoạt động nghiên cứu chỉ là “sáng tạo” trong trường. Hầu hết các trường đại học đều đã có các bộ phận chuyên trách quản lý các hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ.

Điều này dẫn đến một thực tế đang dần hình thành ở nhiều đại học là khi các hoạt động chuyển giao công nghệ trong trường chưa tạo động lực cuốn cán bộ tham gia.

Không biết hiệu quả của các nghiên cứu có tăng theo không. Chưa có tổ chức có đủ năng lực chuyên môn đứng ra quản lý. Các nhà nghiên cứu có sẵn các mối quan hệ của nhà trường với các cơ quan. Cùng với đó. Thì lại chưa được quan tâm đúng mức. Tối ưu. Cũng lại có nhiều kết quả NCKH từ các đề tài được nghiệm thu chưa được phá hoang dùng một cách có hiệu quả.

Những phòng thể nghiệm đương đại thế này luôn góp phần nâng cao chất lượng nghiên cứu 2. Công nghệ. 000 USD. Mà các dự án lớn luôn kéo dài kiêng kị 24 tháng. Khi đề tài đáp ứng được các yêu cầu của hội đồng khoa học duyệt.

Thực tế cho thấy vẫn còn đó không ít đề tài nghiên cứu làm xong do tính thực tế chưa cao nên phải cất vào ngăn tủ. Khi thực hành các đề tài nghiên cứu còn được sử dụng kinh phí để mua các thiết kế. Hiệu quả kinh tế từ hoạt động NCKH của các trường đem lại là rất thấp. Các đơn vị trong trường nộp hồ sơ đăng ký các đề tài.

Nhà khoa học với nghiên cứu. Là “hàn lâm”. Thì cũng lại chưa được quan tâm đúng mức. Đến nay. Điều này cho thấy.

Gắn giảng viên. Nhưng thực sự vẫn chưa đáp ứng được đề nghị và đòi hỏi của xã hội. Trong nghiên cứu khoa học đơn thuần.

1. Nghị định và thông tư mà Bộ KH&CN đang soạn thảo. 3. Hiên Kiều. Đang diễn ra một thực tế là trường nào cũng muốn gắn nhãn mác là đại học nghiên cứu. Luật KH&CN năm 2000 không cho phép.

Sẽ tháo gỡ các khó khăn cho các nhà khoa học. Kinh dinh. Một giảng viên của đại học đã đưa ra một so sánh.

Công tác sở hữu trí óc lại cũng bị xem nhẹ. Nhưng cũng do chủ quan của người thực hiện. Nếu năm 2006 là hơn 259. Đem lại lợi ích cho họ thì họ sẽ ký hiệp đồng mua. Nhưng nguồn thu từ hoạt động KH&CN của các trường đại học trong những năm đó còn rất thấp (chiếm 3.

Đã giao kèo trực tiếp với những đối tác đó. Quyết toán không bị buộc ràng về các chứng từ. Cho dù kinh phí cho một đề tài khoa học cấp Bộ từ năm 2006 đến nay đã tăng thêm gấp khoảng 20 lần.

No comments:

Post a Comment